Chưa được phân loại

Mụn cóc và 7 thể bệnh cần biết

Mụn cóc là bệnh da liễu phổ biến, lành tính, tổn thương thượng bì do nhiễm papillomavirus ở người có thể xuất hiện bất cứ nơi nào trên cơ thể với nhiều hình thái khác nhau. Chẩn đoán bằng khám lâm sàng. Mụn cóc thường tự giới hạn nhưng có thể được điều trị bằng các phương pháp phá huỷ (cắt bỏ, đốt laser, phẫu thuật lạnh, ni tơ lỏng) và các thuốc bôi hoặc tiêm.

1- Nguyên nhân của mụn cóc:

Mụn cóc gây ra bởi nhiễm virút papillomavirus ở người (HPV); có hơn 100 loại HPV. Tổn thương da và bị ẩm do mồ hôi nhiều tạo điều kiện gây bệnh. Các yếu tố miễn dịch tại chỗ và toàn thân ảnh hưởng đến sự lây lan; những bệnh nhân suy giảm miễn dịch (đặc biệt là những người bị nhiễm HIV hoặc ghép thận) có nguy cơ phát triển các tổn thương lan tỏa rất khó điều trị.

2- Triệu chứng và dấu hiệu của mụn cóc

Thông thường không có triệu chứng. Tuy nhiên, một số mụn cóc thường nhạy cảm, vì vậy những vùng bề mặt chịu trọng lực (ví dụ, dưới chân) có thể gây ra đau nhẹ hoặc ngứa.

2.1 -Mụn cóc thông thường

Mụn cóc thông thường- Dr Mạnh Linh MD

Mụn cóc thông thường (verrucae vulgaris) do HPV loại 1, 2, 4, 7 .Chúng thường không có triệu chứng nhưng đôi khi gây đau nhẹ khi nằm ở bề mặt chịu trọng lượng (ví dụ dưới chân). Mụn cóc thông thường ranh giới rõ ràng, thô ráp, tròn hoặc bờ không đều, cứng, và màu xám nhạt, vàng, nâu, hoặc xám đen có đường kính từ 2 đến 10 mm. Chúng thường xuất hiện ở các vị trí bị chấn thương (ví dụ: ngón tay, khuỷu tay, đầu gối, khuôn mặt).

2.2- Mụn cóc lòng bàn tay và bàn chân

Mụn cóc bàn tay- Dr Mạnh Linh MD

Những mụn cóc này do HPV loại 1, 2 và 4 gây ra. Các mụn cóc đó xảy ra trên lòng bàn tay và lòng bàn chân. Mụn cóc ở lòng bàn tay và lòng bàn chân bị bẹt do tì đè và có biểu mô sừng hóa bao quanh. Mụn cóc thường mềm và mụn cóc ở lòng bàn chân có thể khiến cho việc đi đứng không thoải mái Bệnh được chẩn đoán phân biệt với sừng và chai chân bởi có điểm chảy máu khi loại bỏ bề mặt da.

2-3 Mụn cóc phẳng

Mụn cóc phẳng- Dr Mạnh Linh MD

Mụn cóc phẳng do HPV loại 3 và 10 và đôi khi là 26 đến 29 và 41 gây ra. Mụn cóc phổ biến hơn ở trẻ em và thanh niên. Các mụn cóc này là các sẩn nhẵn, đầu phẳng, màu vàng nâu, hồng hoặc màu da, thường nằm trên mặt và dọc theo vết trầy xước. Chúng thường không gây triệu chứng nhưng khó điều trị.

2.4- Mụn cóc thể khảm

Mục cóc thể khảm là những mảng được hình thành bởi sự kết hợp của vô số mụn cóc bàn chân nhỏ, mọc sát nhau. Giống như các mụn cóc thể khảm khác, chúng thường mềm.

2.5- Mụn cóc dạng nhú

Mụn cóc dạng sợi- Dr Mạnh Linh MD

Những mụn cóc này dài, hẹp, giống như lá mày, thường nằm trên mí mắt, mặt, cổ, hoặc môi. Thường nhầm lẫn với sùi mào gà.

Dạng phân bố về hình thái này của mụn cơm thông thường là lành tính và dễ điều trị.

2.6- Mụn cóc quanh móng

Mụn cóc quanh móng do HPV loại 1, 2, 4 và 7 gây ra. Những mụn cóc khiến da dày lên, nứt, giống như súp lơ xung quanh móng. Chúng thường không có triệu chứng, nhưng khi mụn cóc lan rộng các vết nứt gây đau.

2.7- Mụn cóc bộ phận sinh dục

Mụn

Mụn cóc sinh dục do HPV loại 6 hoặc 11 (phổ biến nhất) và loại 1a, 2, 4, 7, 16, 18, 27b, 27, 33, 38, 40, 42, 43, 44, 54, 57b, 57c, 61, 72, 81 và 89 gây ra .Các mụn cóc này biểu hiện dưới dạng các nốt sẩn từ phẳng đến nhẵn trên diện rộng đến các nốt sần sùi và có cuống trên các vùng đáy chậu, quanh trực tràng, môi và dương vật. Chúng thường không có triệu chứng, nhưng mụn cóc quanh trực tràng thường ngứa.

Nhiễm các loại HPV nguy cơ cao (đáng chú ý nhất là loại 16 và 18 nhưng cũng có loại 31, 33, 35 và 39) là nguyên nhân chính của ung thư cổ tử cung.

3-Chẩn đoán phân biệt mụn cóc bao gồm:

  • Dày sừng (clavi): Có thể che khuất các đường da nhưng không có mao mạch huyết khối khi cạo

  • Lichen phẳng: Có thể tương tự mụn cóc phẳng nhưng thường có kèm với tổn thương miệng, mạng lưới Wickham và phân bố đối xứng

  • Dày sừng tiết bã: Có thể xuất hiện nhiều, tăng sắc tố, và bao gồm các nang chứa đầy keratin

  • U mềm treo (achrocordon): Có thể có cuống và mịn hơn và có màu da hơn mụn cóc

  • Ung thư biểu mô tế bào vẩy: Có thể bị loét, dai dẳng và phát triển bờ không đều

4- Điều trị mụn cóc

  • Chất gây kích ứng tại chỗ (ví dụ: axit salicylic, cantharidin, nhựa cây podophyllum)

  • Phương pháp phá hủy tổn thương (ví dụ, phẫu thuật lạnh, điện di, nạo, cắt bỏ, laser)

  • Các liệu pháp điều trị tại chỗ khác, liệu pháp tiêm trong tổn thương hoặc kết hợp

Không có phương pháp nào là tuyệt đối trong điều trị mụn cóc !

Cân nhắc điều trị mụn cóc khi ảnh hưởng thẩm mỹ, ở những vị trí ảnh hưởng chức năng, hoặc gây đau nhiều. Bệnh nhân cần được khuyến khích tuân thủ điều trị, bởi điều trị có thể đòi hỏi một thời gian dài và có thể không thành công. Điều trị dễ thất bại với bệnh nhân suy giảm miễn dịch.

Cơ chế của chất kích thích bao gồm gây ra phản ứng miễn dịch đối với HPV. Các chất kích ứng như vậy bao gồm axit salicylic (SCA), axit trichloroacetic, 5-fluorouracil, nhựa podophyllum (ví dụ: podofilox), tretinoin và cantharidin. Sinecatechin có thể được sử dụng cho mụn cóc sinh dục.

Kem imiquimod 5% tại chỗ làm các tế bào da tạo ra tại chỗ các cytokine có tác dụng kháng virus. Cidofovir tại chỗ, và liệu pháp miễn dịch tiếp xúc (ví dụ, axit squaric axit dibutyl este và kháng nguyên Candida) đã được sử dụng để điều trị mụn cóc. Mụn cóc ban đầu có thể được ngâm trong nước nóng ở nhiệt độ 113°F trong 30 phút ≥ 3 lần/tuần. Sau khi ngâm, da dễ thấm hơn với các chất bôi ngoài da. Kháng nguyên Candida cũng có thể được tiêm trực tiếp vào tổn thương.

Các phương pháp điều trị mụn cóc cũng bao gồm uống cimetidin (nghi ngờ về hiệu quả), isotretinoin, và kẽm. Cidofovir đường tĩnh mạch cũng có thể được sử dụng. Trong hầu hết các trường hợp, nên phối hợp các biện pháp để tăng hiệu quả điều trị. Riêng mụn cóc đơn độc kháng trị điều trị cần kháng virus trực tiếp bằng cách tiêm tĩnh mạch bleomycin và interferon alfa-2b.

Những loại thuốc này có thể được sử dụng kết hợp với phương pháp phá huỷ (ví dụ như phẫu thuật lạnh, đốt plasma, nạo, cắt bỏ, laser) bởi vì mặc dù có thể loại bỏ được mụn cơm bằng phương pháp phá huỷ, virus vẫn có thể giữ lại trong các mô và gây tái phát.Thuốc tiêm chủ ý có thể được sử dụng để điều trị mụn cóc kháng trị.

4.1 Mụn cóc thông thường

Ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, mụn cóc thông thường thường giảm trong vòng 2 đến 4 năm, nhưng một số vẫn tồn tại trong nhiều năm. Phương pháp phá hủy tổn thương bao gồm đốt plasma, phẫu thuật lạnh với nitơ lỏng, và phẫu thuật laser thường được ưu tiên.

Ngoài ra còn có Axit salicylic (SCA) dạng bôi dạng thạch hoặc ngâm tẩm trong băng keo. Bệnh nhân bôi SCA vào mụn cóc vào ban đêm và để trong 8 đến 48 giờ tùy thuộc vào vị trí.Ngoài ra SCA có thể kết hợp với 5-fluorouracil để điều trị mụn cóc thông thường ở lòng bàn tay và lòng bàn chân.

Cantharidin (0,7% trên vùng da mỏng và 1% trên vùng da dày hơn) có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc phối hợp với SCA 30% và podophyllum 5% trong nền keo. Riêng cantharidin cần rửa sạch bằng xà phòng và nước sau 6 tiếng; cantharidin với SCA hoặc podophyllum cần được loại bỏ trong 2 tiếng. Các chất này tiếp xúc với da lâu dễ phản ứng hình thành bọng nước.

Phẫu thuật lạnh thường đau nhưng rất hiệu quả. Nạo bằng điện cực, phẫu thuật laser, hoặc cả hai đều có hiệu quả và được chỉ định đối với những tổn thương đơn độc nhưng có thể gây sẹo.

Trong vòng 35 năm khoảng 1% bệnh nhân tái phát mụn cóc; do đó, phương pháp mà để lại sẹo nên tránh tối đa vì nhiều sẹo gây mất thẩm mỹ. Các vùng không quan trọng về mặt thẩm mỹ và mụn cơm kháng trị có thể cân nhắc phương pháp điều trị để lại sẹo.

4.2 Mụn cóc dạng nhú

Điều trị mụn cóc dạng nhú là loại bỏ bằng dao, kéo, nạo hay nitơ lỏng. Nitơ lỏng nên được áp sao cho khoảng 2 mm vùng da xung quanh tổn thương mụn cóc biến thành màu trắng. Tổn thương da xảy ra khi da bị rã, thường mất từ 10 đến 20 giây. Nổi bọng nước có thể xảy ra từ 24 đến 48 giờ sau khi xử lý với nitơ lỏng.

Cần cẩn thận khi điều trị các vị trí nhạy cảm về mặt thẩm mỹ, như mặt và cổ, vì sau khi điều trị bằng ni tơ lỏng thường gây sự mất màu hoặc tăng sắc tố da. Những bệnh nhân da có màu sắc đậm có thể bị mất sắc tố vĩnh viễn.

4.3 Mụn cóc phẳng

Điều trị mụn cóc phẳng rất khó khăn và thường kéo dài hơn so với mụn cóc thông thường. Thông thường là bôi tretinoin hàng ngày (axit retinoic 0,05% kem). Nếu lột da không đủ để loại bỏ mụn cóc, có thể dùng hoạt chất khác (ví dụ, 5% benzoyl peroxide) hoặc 5% kem SCA hoặc kem Imiquimod 5% ,kem bôi 5-fluorouracil 1% hoặc 5%.

4.4 Mụn cóc bàn tay

Các phương pháp điều trị tốt gồm: laser CO2, laser màu xung.

Ngoài ra điều trị mụn cóc bàn tay có thể dùng miếng dán SCA 40% Hoặc phối hợp giữa băng dán 17% SCA và 2,5% 5-fluorouracil trong 8 tiếng đến 12 tiếng. Mụn cóc cũng sẽ bị phá hủy bằng 30%đến 70% axit trichloroacetic.

4.4 Mụn cóc quanh móng

Sử dụng nitơ lỏng và đốt điện để điều trị mụn cóc quanh móng và quanh ngón tay nên được thực hiện cẩn thận vì liều điều trị quá mạnh có thể gây biến dạng móng tay vĩnh viễn và hiếm hơn là tổn thương thần kinh.

4.5 Mụn cóc kháng trị

Có thể điều trị hiệu quả bằng tiêm tại chỗ một lượng nhỏ 0,1% dung dịch bleomycin pha với nước muối. Tuy nhiên, hội chứng Raynaud hoặc tổn thương mạch máu có thể phát sinh ở các ngón được tiêm, đặc biệt là khi dung dịch được tiêm ở gốc ngón, vì vậy cần thận trọng. Tiêm kháng nguyên Candida vào tổn thương cũng đã được báo cáo là có hiệu quả.

Mụn cóc kháng trị hoặc mụn cóc sinh dục có thể điều trị bằng interferon (đặc biệt interferon alfa) tiêm tại chỗ (3 lần/tuần trong 3 đến 5 tuần) hoặc tĩnh mạch.

Mụn cóc lan tỏa có thể điều trị hiệu quả bằng isotretinoin đường uống hoặc acitretin.

Mụn cóc kháng trị ở trẻ em có thể điều trị hiệu quả bằng vắc xin HPV 9.

5- Tiên lượng về mụn cóc

Nhiều mụn cóc có thể tự mọc lại (đặc biệt là mụn cóc thông thường); những thể khác ngay cả khi được điều trị vẫn tồn tại trong nhiều năm và tái phát tại cùng vị trí hoặc ở vị trí khác. Các yếu tố ảnh hưởng đến tái phát có liên quan đến tình trạng miễn dịch toàn thân của bệnh nhân cũng như các yếu tố tại chỗ.

6- Phòng ngừa mụn cóc

Chích vắc-xin HPV giúp bảo vệ chống lại một số loại HPV gây ra mụn nhọt và ung thư.

Nếu bạn cần tìm địa chỉ điều trị mụn cóc uy tín TP Hồ Chí Minh, vui lòng đặt lịch tại phòng trị liệu của Bác Sĩ Mạnh Linh bạn nhé.

Tài liệu tham khảo nguyên nhân gây bệnh

 

  • Haley CT, Mui UN, Vangipuram R, et al: Human oncoviruses: Mucocutaneous manifestation, pathogenesis, therapeutics, and prevention. Papillomaviruses and Merkel cell polyomavirus. J Am Acad Dermatol 81:1–21, 2019. doi: 10.1016/j.jaad.2018.09.062
  • Muse ME, Stiff KM, Glines KR, et al: A review of intralesional wart therapy. Dermatol Online J 26(3):13030/qt3md9z8gj, 2020.

  • Kost Y, Zhu TH, Blasiak RC: Clearance of recalcitrant warts in a pediatric patient following administration of the nine-valent human papillomavirus vaccine. Pediatr Dermatol 37(4):748–749, 2020. doi: 10.1111/pde.14150

 

Back to list

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

CAPTCHA ImageChange Image